Vào tháng 10 năm 1805, Anh đối mặt với nguy cơ bị xâm lược bởi quân Pháp. Lực lượng duy nhất ngăn cản điều này là Hải quân Hoàng gia Anh, dẫn đến Trận Trafalgar.
Năm 1805, tương lai của châu Âu có vẻ như đã thuộc về Pháp. Các đạo quân của Napoleon đang tiến công và đã chiếm đóng phần lớn châu Âu. Quân đội Phổ và Áo gần như mất hết quyền tự quyết khi phải dưới sự kiểm soát của Pháp, và Đế chế La Mã Thần thánh sẽ bị giải thể. Hà Lan và phần lớn Ý đã đầu hàng. Pháp còn có liên minh với Tây Ban Nha, điều này càng khiến Anh lo lắng khi Napoleon có ý định xâm lược.
Pháp và Tây Ban Nha đã tập hợp một hạm đội mạnh mẽ nhằm tiêu diệt sự kháng cự của Hải quân Anh và mở đường cho quân Pháp đổ bộ vào Anh. Tuy nhiên, Hải quân Anh không chấp nhận dễ dàng thất bại. Họ đã chủ động tấn công và kéo quân Pháp vào một trận chiến gần Mũi Trafalgar, ngoài khơi Tây Ban Nha. Những gì xảy ra tiếp theo là một cuộc giao tranh huyền thoại, thay đổi hoàn toàn cục diện lịch sử: Trận Trafalgar.
Mở đầu Trận Trafalgar
Vào thời điểm Trận Trafalgar, châu Âu đang phải đối mặt với sự phát triển mạnh mẽ của Đế chế Pháp. Năm 1805, Đế chế Pháp dưới sự lãnh đạo của Napoleon đã trở thành đế chế đất liền mạnh nhất ở châu Âu, với các đạo quân sẵn sàng chiếm đóng các vùng đất phía Đông, đặc biệt là Ý, Phổ và Áo. Tuy nhiên, trên biển, Vương quốc Anh vẫn là cường quốc thống trị và đã áp đặt các cuộc phong tỏa hải quân, thành công trong việc ngừng giao thương giữa các lãnh thổ Pháp và thế giới.
Vì sự thống trị trên biển của Anh, Pháp không thể thực hiện kế hoạch xâm lược Anh vào năm 1804 của Napoleon. Trong năm này, hạm đội Anh dưới sự chỉ huy của Đô đốc Lord Horatio Nelson đã đuổi theo hạm đội Pháp dưới sự chỉ huy của Đô đốc Villeneuve, từ Biển Tây Ấn và trở lại nhưng không thể buộc quân Pháp tham chiến. Bực bội vì sự bất lực của hải quân Pháp trong việc vượt qua những chướng ngại vật, Napoleon chuyển hướng chú ý sang Áo, quốc gia vừa tuyên chiến với Pháp.
Hạm đội Pháp, với sự hỗ trợ từ hải quân Tây Ban Nha, giờ đây có 33 tàu chiến và được phái đi tấn công Naples để phân tán sự chú ý của Áo khỏi một cuộc tấn công trực tiếp vào Pháp. Tuy nhiên, Anh không bỏ qua hạm đội Pháp-Tây Ban Nha. Họ quyết định đuổi theo Đô đốc Villeneuve và trung lập hóa hạm đội của Napoleon.
Tuy nhiên, hạm đội Anh không phải là đội quân mạnh nhất. Hạm đội của Nelson chỉ có 27 tàu chiến, ít hơn hạm đội Pháp-Tây Ban Nha. Để đánh bại liên minh hải quân Pháp-Tây Ban Nha, Nelson biết rằng ông phải dựa vào sự phối hợp và luyện tập kỹ năng cho các chỉ huy và thủy thủ của mình để họ tuân theo kế hoạch chiến đấu, thay vì chỉ chờ đợi cơ hội hay thậm chí cố gắng chiến thắng bằng sự hao mòn.

Nelson đã thống nhất với các chỉ huy rằng kế hoạch của họ sẽ dựa vào sự vượt trội của hải quân Anh trong việc chiến đấu gần. Kế hoạch này sẽ hoàn toàn khác với chiến thuật hải quân thông thường lúc bấy giờ. Trong suốt 150 năm trước đó, các trận hải chiến thường diễn ra theo đội hình dài, các tàu chiến hướng mạn vào kẻ thù, che chắn mũi và đuôi tàu dễ bị tổn thương.
Các tàu sẽ giao chiến với nhau trong đội hình này, tìm kiếm điểm yếu trong đội hình đối phương để phá vỡ và tấn công mũi và đuôi của các tàu đối thủ, gây thiệt hại và khiến đội hình bị rối loạn, vì việc giữ vững đội hình là rất quan trọng cho việc giao tiếp.
Vào tháng 9, hạm đội của Villeneuve đã rút vào cảng Cadiz của Tây Ban Nha, gần Mũi Trafalgar. Nelson, hạm đội của ông đã phong tỏa cảng này, ra lệnh cho hạm đội Anh rút về phía Bồ Đào Nha và theo dõi hạm đội Pháp-Tây Ban Nha từ xa. Khi Nelson điều sáu tàu của mình đi lấy tiếp tế, Villeneuve đã thấy đây là cơ hội để tiêu diệt hạm đội Anh. May mắn cho Nelson, các tàu đã kịp trở lại và năm tàu đã vào đội hình trước khi trận chiến bắt đầu. Tàu thứ sáu, HMS Africa, bị chậm trễ và không vào đội hình nhưng vẫn tham gia vào Trận Trafalgar.
Trận Trafalgar bắt đầu

Vào lúc 6 giờ sáng ngày 21 tháng 10, hạm đội Franco-Spanish đã được phát hiện ngoài khơi mũi Trafalgar. Đến 6 giờ 40 phút, Đô đốc Nelson ra lệnh tấn công đối phương. Hạm đội Pháp di chuyển theo đội hình dài, hướng về phía bắc, trong khi Nelson chia hạm đội của mình thành hai đội hình và tiến về phía đội hình đối phương theo góc 90 độ.
Ông lên kế hoạch để vượt qua làn sóng pháo kích của đối phương và cắt đứt đội hình Franco-Spanish tại hai điểm. Với cách làm này, mỗi tàu Anh khi vượt qua sẽ có thể bắn tất cả các khẩu pháo ở hai bên vào phần sau và đuôi của tàu đối phương.
Khi vượt qua đội hình, hạm đội Franco-Spanish sẽ bị chia thành ba phần. Hạm đội Anh có thể tập trung vào phần giữa và phía sau, trong khi đội tiên phong của Franco-Spanish sẽ bị cắt đứt và không thể bắn vào bất kỳ mục tiêu nào. Nó sẽ phải quay lại, trong khi đó, hạm đội Anh sẽ đã giải quyết xong hai phần còn lại nhờ vào ưu thế về số lượng, sự chủ động và khả năng điều khiển pháo tốt hơn.
Đội hình đầu tiên sẽ do Đô đốc Nelson chỉ huy trên tàu flagship HMS Victory, trong khi đội hình thứ hai sẽ do Phó Đô đốc Cuthbert Collingwood chỉ huy trên tàu HMS Royal Sovereign.
Vào lúc 11 giờ 45 phút, Nelson ra hiệu từ tàu flagship của mình với dòng chữ: “Anh Quốc mong đợi mỗi người thực hiện nghĩa vụ của mình.” Tín hiệu này được toàn bộ hạm đội hoan nghênh nhiệt liệt. Đô đốc Pháp Pierre-Charles-Jean-Baptiste-Silvestre de Villeneuve ra hiệu tấn công đối phương. Đến 11 giờ 50 phút, quân Pháp mở hỏa lực. Trận chiến Trafalgar đã bắt đầu.
Theo kế hoạch, Nelson và Collingwood chỉ huy đội hình của mình tiến thẳng về phía đội hình Franco-Spanish, vốn đã tụ tập lộn xộn và di chuyển chậm do gió nhẹ. Các tàu Anh phải chịu đựng hỏa lực mạnh mà không thể đáp trả. Trong đội hình của Collingwood, tàu HMS Belleisle đã bị bốn tàu Pháp tấn công và chịu thiệt hại nặng. Tàu bị tước cột buồm, buồm bị tê liệt, không thể khai hỏa được nữa. Tuy nhiên, tàu vẫn giữ cờ tung trong 45 phút cho đến khi các tàu khác trong đội hình của Collingwood kịp thời đến hỗ trợ.
Trong đội hình của Nelson, HMS Victory đã chịu thiệt hại nặng nề, và nhiều thành viên trong thủy thủ đoàn của tàu đã hy sinh. Bánh lái của tàu bị bắn vỡ, và tàu phải được điều khiển bằng bánh lái dưới boong. Tuy nhiên, HMS Victory vẫn sống sót qua cuộc tấn công, và vào lúc 12 giờ 45 phút, tàu cắt đội hình Pháp giữa tàu chỉ huy Bucentaure của Villeneuve và Redoutable.
Lợi thế giờ đây thuộc về quân Anh khi họ vượt qua đội hình Franco-Spanish. Các tàu Anh có thể bắn vào cả hai bên của tàu đối phương. HMS Victory đã bắn một loạt hỏa lực tàn khốc vào Bucentaure rồi quay sang tấn công Redoutable. Hai tàu đối đầu trực diện và giao tranh quyết liệt xảy ra khi thủy thủ đoàn hai bên chiến đấu. Với sự hỗ trợ của bộ binh, tàu Pháp cố gắng đổ bộ và chiếm lấy HMS Victory. Các pháo thủ của HMS Victory được gọi lên boong để ngăn chặn lính đổ bộ Pháp nhưng bị phân tán bởi đạn lựu đạn của Pháp.
Ngay khi tưởng như HMS Victory sẽ bị chiếm, tàu HMS Temeraire lao lên mạn phải của Redoutable và mở hỏa lực, gây thương vong lớn cho tàu Pháp. Cuối cùng, Redoutable đầu hàng, nhưng cuộc giao chiến không phải không có tổn thất lớn cho quân Anh. Một viên đạn súng trường từ mạn trên của Redoutable đã bắn trúng Đô đốc Nelson giữa vai và cổ. “Cuối cùng chúng đã có tôi. Tôi đã chết!” ông thốt lên trước khi được đưa xuống boong để các bác sĩ trên tàu chữa trị.

Khi phần phía bắc của hạm đội Franco-Spanish không thể tham gia vào trận chiến, phần còn lại của hạm đội bị áp đảo về số lượng và sức mạnh hỏa lực. Mỗi tàu đều kháng cự yếu ớt trước khi bị đánh bại hoàn toàn. Một lần lượt, các tàu Pháp và Tây Ban Nha đầu hàng, không còn khả năng chống cự. Tất cả các tàu Franco-Spanish phía bắc đội hình của Nelson nhận ra không còn cách nào thay đổi cục diện trận chiến. Sau một màn kháng cự yếu ớt, họ rời khỏi Trafalgar và quay về Gibraltar.
Trận chiến diễn ra nhanh chóng và quyết định. Quân Anh đã bắt giữ 22 tàu mà không mất một chiếc nào. Tuy nhiên, dưới boong của HMS Victory, Đô đốc Nelson đang trải qua những giây phút cuối cùng của cuộc đời. “Cảm ơn Chúa, tôi đã làm tròn nhiệm vụ của mình!” Bác sĩ William Beatty nghe được lời thì thầm của Đô đốc. Linh mục của Nelson, Alexander Scott, đã ở lại bên cạnh vị chỉ huy cho đến phút cuối. Ba giờ sau khi viên đạn súng trường xuyên qua cơ thể, Đô đốc Nelson qua đời.
Thi thể của ông được bảo quản trong một thùng rượu brandy để đưa về Anh. Dĩ nhiên, Nelson không phải là người duy nhất hy sinh trong trận Trafalgar. 458 thủy thủ Anh thiệt mạng và 1.208 người bị thương. Phía Pháp và Tây Ban Nha có 4.395 người chết và 2.541 người bị thương.
Hậu quả Trận Trafalgar
Trên hành trình trở về, những cơn bão dữ dội đã tàn phá biển cả, trong khi các tàu Pháp đe dọa đội tàu Anh đang kéo theo những chiến lợi phẩm. Quân Anh buộc phải từ bỏ một phần chiến lợi phẩm để tránh giao chiến. Tuy nhiên, tổn thất đối với kế hoạch xâm lược Anh của Napoleon đã hoàn thành, và ông từ bỏ ý định này.
Mặc dù hạm đội Pháp khôi phục lại phần nào sức chiến đấu, nhưng trận Trafalgar đã buộc Pháp không dám đối đầu với Anh trong một trận hải chiến nghiêm trọng nữa. Tuy nhiên, chiến tranh vẫn tiếp tục trên lục địa suốt mười năm sau đó khi các đội quân Napoleon gây ra tàn phá.
Tại London, Đô đốc Nelson được tổ chức một tang lễ anh hùng. Quảng trường Trafalgar được đặt tên theo trận chiến, và một cột cờ với tượng Nelson được dựng lên ở trung tâm quảng trường.
Lời kết
Trận Trafalgar đã thay đổi cục diện chiến tranh, đánh bại ý đồ xâm lược của Napoleon. Dù tổn thất nặng nề, Anh đã giành chiến thắng quyết định và khiến Pháp không dám tái đấu trên biển. Qua bài viết, Thefactsofwar đã khắc họa rõ nét tầm quan trọng của trận chiến này trong lịch sử, cũng như sự hy sinh của Đô đốc Nelson, một biểu tượng của chiến thắng và lòng dũng cảm.
Biên dịch nội dung: Minh Tuấn
Nguồn: thecollector.com – Battle of Trafalgar: How Admiral Nelson Saved Britain from Invasion